.::Giai tri hay.Giai tri hay nhat.Giai tri hay nhat viet nam.Wap giai tri. Wap giai tri hay nhat.Wap hay.Wap giai tri hay.Wap hay nhat.Wap hay nhat viet nam.Wap giai tri hay nhat viet nam.Wap giai tri hang dau viet nam.Wap giai tri lanh manh.Wap viet.Wap game.Wap tai mien phi.Giai tri viet.Giai tri so.Giai tri vui.Giai tri so 1 the gioi.Giai tri so hay.Giai tri so hay nhat.Giai tri online.Giai tri online hay.Giai tri online hay nhat.Giai tri truc tuyen.Giai tri truc tuyen hay.Giai tri hay nhat.Giai tri hang ngay.The gioi tên.The gioi di dong.Nhat.keyword.Haynhat.wap.sh-Sinhvien.xtgem.com-Portal ::.
(Phunutoday) - Phải đến lần thứ 3 chinh phục cao nguyên đá Đồng Văn (Hà Giang), chúng tôi mới gặp được cặp vợ chồng mà theo nhiều người ở thị trấn Đồng Văn, tình yêu của họ khiến đá cũng khâm phục. Đó là câu chuyện của thầy giáo người Kinh- Lương Văn Sơn và cô tạp vụ người Mông - Lý Mẩy Chà (ở xã Lũng Phìn, Đồng Văn, Hà Giang).
Thầy giáo người Kinh- Lương Văn Sơn đã “biến” mình thành một người Mông thực thụ.Còn nhớ cách nay hơn một năm, lần đầu tiên chúng tôi đặt chân lên cao nguyên đá đã được nghe người ta kể về câu chuyện tình “xưa nay hiếm” ở miền khô khát này.
“Đôi uyên ương” giữa “biển đá” cao nguyên
Trời chập choạng tối, trong cái se lạnh của mùa đông mù sương, cộng thêm màu đá xam xám của cao nguyên đá khiến bầu trời thêm lạnh lẽo. Người chúng tôi như ấm hẳn lên khi thấy thấp thoáng giữa những mỏm đá lô nhô hình dáng hai người đang tay trong tay đi tới. Vừa đi, họ vừa nói cười râm ran vào vách núi. Chúng tôi mừng thầm vì người cần gặp sau nửa ngày chờ đợi đã xuất hiện. Họ chính là đôi “uyên ương” đang “bơi” giữa chập trùng biển đá cao nguyên.
Chúng tôi được mời vào một ngôi nhà xây bằng đất và đá, lợp mái tôn, xung quanh được xếp rào bằng tường đá, nằm lẻ loi giữa bạt ngàn ngô và đá cheo leo dưới các ngọn núi cao vút. Ấy vậy mà đây chính là tổ ấm, nơi se mối lương duyên giữa thầy giáo người Kinh và cô tạp vụ người Mông hiền lành chất phác ngày nào.
Dưới ngọn đèn dầu le lói, chẳng mấy chốc một mâm cơm đầm ấm đã được bày ra. Trong lúc ăn cơm, chúng tôi có dịp tìm hiểu về câu chuyện tình của hai người. Anh Sơn gắp miếng trứng gà rán, nhẹ tay đặt vào bát cơm của vợ, rồi nhìn chúng tôi và nói: “Mình quê ở huyện Vĩnh Tường (Vĩnh Phúc), năm 2000, mình tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, tình nguyện lên đây dạy học. Rồi lấy vợ ở trên này luôn. Vợ chồng mình có một nhà ở thị trấn Đồng Văn nữa, đây là nhà cũ, chúng mình thường hay về vào ngày cuối tuần”.
Chị Chà, vợ anh Sơn như đoán được ý của chúng tôi vội rót nước từ ấm trà hạt bí đặc sản của người Mông mời chúng tôi rồi tiếp tục câu chuyện với cái giọng tiếng Kinh còn hơi ngượng: “Nhà mình thì ở đây thôi, gần trường học mà. Ngày xưa thầy giáo người Kinh lên đây dạy học, thầy giáo yếu lắm, gùi bao gạo, xách xô nước không nổi, đi bộ mấy bước kêu mỏi chân, không gùi được gì theo cả. Mình thấy, mình thương thì mình đồng ý làm vợ thôi” - nói rồi, chị nhìn chồng tủm tỉm cười, thấy vậy chúng tôi cũng cười vang, không khí trở nên vui tươi đầm ấm hơn, bữa cơm cũng trở nên ngon hơn. Chẳng mấy chốc bữa cơm đầm ấm vùng cao núi đá kết thúc bên bếp lửa đỏ hồng
Bên bếp lửa ấm áp đốt bằng thân cây ngô khô, chúng tôi có thời gian tìm hiểu câu chuyện tình đặc biệt hiếm có ở nơi địa đầu tổ quốc này. Tôi hỏi: “Anh chị đến với nhau như thế nào?”. Anh Sơn đưa mắt nhìn vợ rồi ngẩng mặt lên trần nhà, mỉm cười để lộ hàm răng vàng óng kể rằng: “Mình là giáo viên ở Trường Lũng Phìn, cách thị trấn Đồng Văn khoảng 50km. Khi mới ra trường, lên đây, người mình gầy còm, ốm yếu lắm. Mỗi khi hết gạo, hết thức ăn, mình phải xuống chợ huyện mới mua được. Mà phải đi bộ đấy nhé. Có lần mua 20kg gạo, cộng thêm một ít mắm khô và thùng mì tôm nữa. Mình vác ngược dốc được khoảng chục cây số đường núi đá thì ngã khuỵu, không thể bước đi được nữa. Đúng lúc đó, mấy cô gái Mông cũng đi chợ về, sau lưng gùi rất nhiều đồ thấy thầy giáo mệt họ liền xúm lại trêu đùa bằng mấy câu tiếng Kinh”.
Chị Chà tiếp tục câu chuyện: “Khi ấy mình thấy mồ hôi chảy nhiều trên má thầy giáo, tưởng thầy giáo khóc nên thương thầy lắm, mình là người can đảm nhất trong đám bạn đã bước tới động viên thầy, rồi nhẹ tay nhấc bao gạo bỏ vào gùi giúp thầy mang về. Khi ấy, nhìn thầy giáo buồn cười lắm, quần thì rách từ đầu gối xuống vì quệt vào đá sắc nhọn, thầy bước mệt mỏi theo sau”.
Được biết, với 50km đường núi đá phải mất gần 2 ngày đường đi bộ mới tới nhà. Vậy là đêm ấy, thầy Sơn được các “sơn nữ” người Mông đốt lửa sưởi ấm ngủ ngon lành với “màn” mây mù “chiếu” đá. Sáng hôm sau, đám bạn của Chà gùi nhẹ hơn đã nhanh chân về trước để đi nương. Lúc này, chỉ còn hai người, thầy Sơn chỉ biết lẳng lặng theo sau cô gái Mông với bắp chân hình búp măng cuốn khăn kín mít mà chẳng nói được một lời cảm ơn. Trong lúc mệt nhọc, được người khác giúp đỡ, anh đã nghĩ về gia đình, về người thân, bạn bè ở quê hương. Rồi Sơn thấy lòng mình khâm phục, cảm mến cô gái Mông đang thoăn thoắt gùi gạo cho mình đi trước.
Anh Sơn - chị Chà hạnh phúc bên nhau trong phiên chợ Lũng Phìn.Khi về đến trường, thầy Sơn mới biết nhà cô gái Mông đó chỉ cách trường mình đang dạy có một quả núi, vậy là thi thoảng khi Chà thường chơi, thầy Sơn lại nhờ Chà đưa đến nhà bà con dân tộc để động viên con em đến trường. Chẳng là hồi đó, bà con miền núi rất ít người biết tiếng Kinh, họ không cho con mình đi học, họ cho rằng việc học không làm ra cái ăn. Thầy giáo Sơn mới lên không biết tiếng Mông nên phải nhờ Chà đã từng học đến cấp hai ở trường nội trú huyện làm phiên dịch.
Do biết tiếng Kinh, lại là người địa phương nên Chà được nhà trường nhận vào làm tạp vụ tại trường thầy Sơn dạy, công việc chính của của Chà là đánh trống, quét dọn và pha trà mỗi khi trường có khách. Vậy là họ gần nhau hơn, hôm nào cũng được trò chuyện, khi xa nhau lại thấy nhớ. Rồi tình yêu của hai người dành cho nhau lúc nào không hay biết. Các thầy cô trong trường biết ý còn sắp xếp cho hai người cùng làm việc, nấu cơm, rửa bát trùng lịch nhau. Thế là câu “lửa gần rơm lâu ngày cũng bén” đã trở thành hiện thực.
“Cô ấy không biết anh yêu em là gì?”
Cậu chuyện mà anh Sơn, chị Chà thủ thỉ kể với chúng tôi chân thật đến nỗi chúng tôi cứ ngỡ câu chuyện tình đặc biệt này vừa mới diễn ra ngày hôm qua. Chúng tôi hỏi: Khi ấy, anh Sơn bày tỏ tình yêu của mình với chị Chà như thế nào? Anh Sơn bật cười, hơi thở mạnh khiến ngọn đèn dầu bỗng tắt phụp, chúng tôi giật mình co dúm người.
Nhưng bên bếp lửa hồng, khuôn mặt ai cũng đỏ ửng hẳn lên, chị Chà nghiêng người tựa đầu vào vai chồng rồi từ từ cất giọng: “Ngày ấy, mình thật là ngốc, cứ đứng gần anh ấy là nắm tay anh ấy ngay. Có lần mình giật mình vì anh ấy tự nhiên cầm tay mình. Đêm ấy trăng sáng lắm, nhìn được cả mấy quả núi phía xa. Anh ấy nói với mình rằng: “Anh yêu em!”, người Mông mình ở trên núi quanh năm suốt tháng chưa từng nghe đến câu nói này bao giờ, mình cũng chẳng biết anh ấy nói gì, lúc đó, mình cảm nhận như bàn tay yếu ớt thư sinh của anh ấy nắm chặt tay mình hơn, anh cứ nhìn thẳng vào mắt mình, sợ quá mình bỏ chạy về với bố mẹ”.
Anh Sơn thấy vợ nói vậy liền đưa tay đan vào tay vợ, nắm chặt rồi lắc nhẹ. Chị Chà như lấy được cảm xúc kể tiếp: “Mãi sau này được vài lần có đoàn văn công đến xã diễn, họ diễn những vở liên quan đến tình yêu mình mới biết hôm ấy, dưới ánh trăng sáng, anh Sơn đã bày tỏ tình cảm với mình”.
Trời đã về khuya, từng đợt sương muối lọt qua khe cửa sổ vào nhà, chúng tôi cảm nhận được cái lạnh của miền cao địa đầu tổ quốc thân yêu này. Anh Sơn nhanh tay gẩy đống than trong bếp tan ra cho ấm, ngọn lửa một lần nữa được tiếp thêm sức mạnh như câu chuyện tình yêu.
Anh Sơn kể: “Mình nhớ nhất là lần đi vận động các em học sinh đến trường về, trên đường gặp mưa bất chợt, quần áo ướt sũng. Về đến nhà, mình bị cảm, phải nằm cả tuần. Và cũng cả tuần đó mình được Chà nấu cháo ngô cho ăn. Chẳng là lần ấy trời mưa triền miên, không thể nào xuống chợ mua gạo được, nhà Chà nghèo, với lại người Mông chủ yếu ăn ngô thay cơm. Khi ấy, mình chỉ ước ao chạy một mạch về nhà với gia đình, người thân để được ăn một bát cơm do mẹ nấu”. Nhưng được sự chăm sóc của Chà, Sơn đã vơi đi nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương. Thế rồi khi cái ốm qua đi cũng là lúc tình yêu thêm nông đượm.
Nhắc lại lần đầu tiên cầm tay Chà rồi nói: “Anh yêu em!”, thầy Sơn nhìn vợ: “Hồi ấy em ngốc thật, người ta nói có thế đã bỏ chạy, khiến người ta đuổi theo được nửa quả núi thì mệt quá không bước được nữa”. Đã quá nửa đêm, anh Sơn, chị Chà có lẽ cũng đã mệt mỏi với cả tuần làm việc. Còn chúng tôi, đôi chân trở nên đau nhức hơn mỗi khi cựa quậy.
Những tưởng câu chuyện của chúng tôi sẽ kết thúc rồi chìm sâu vào giấc ngủ tĩnh lặng thâm u của nơi “thâm sơn cùng cốc” này. Thế nhưng, đúng lúc đó anh Sơn đứng dậy, rút từ trong ống nứa gần cửa ra một cây sáo. Chẳng nói năng gì, anh thổi một khúc nhạc dìu dặt của người Mông. Tiếng nhạc du dương khiến người bạn của tôi ngồi trên giường gần bếp ngủ say lúc nào không hay biết. Anh Sơn khoe rằng: “Mình học được thổi sáo qua những lần cùng bố vợ đi nương đó”.
Tiếng sáo Mông vẫn vang vọng bên tai tôi, giật mình tôi hỏi: “Vậy là anh cũng biết đi nương?”. Anh Sơn rót chén trà hạt bí đặc sản của người Mông lần nữa rồi anh kể về quá trình gian nan chinh phục hai gia đình của hai người mà theo anh, hồi mới lên gùi gạo đi bộ vượt dốc khó khăn bao nhiêu thì việc hai người đến với nhau thành vợ, thành chồng càng khó khăn gấp trăm ngàn lần.
Hai cậu con trai của Sơn và Chà đang học cấp 1 tại một trường ở thị trấn Đồng Văn.
Câu chuyện về tình yêu của hai người được nhiều người biết đến khi lần đầu tiên Sơn xách cặp đến ra mắt gia đình người yêu. Rồi những khó khăn trở ngại cứ từ đâu ập đến khiến Sơn không biết xử trí như thế nào. Nào là bất đồng ngôn ngữ, gia đình Chà toàn nói chuyện với nhau bằng tiếng Mông, thi thoảng mới loáng thoáng pha chút tiếng Kinh, khiến anh chẳng biết đâu là đầu, cuối câu chuyện.
Tuy chỉ cách trường hai người công tác một quả núi nhưng phải mất hơn 2 giờ đi bộ mới tới nhà Chà. Đi rồi Sơn mới biết mỗi ngày Chà phải dậy từ rất sớm cuốc bộ xuống núi làm việc, có hôm mùa đông còn phải đốt đuốc ngô đi làm. Nói là ra mắt nhà vợ tương lai nhưng Sơn cứ ngơ ngác như người ở miền núi lần đâu tiên xuống nơi phố thị. Bố mẹ Chà nhìn Sơn rồi lắc đầu: “Con rể ta phải có sức khỏe, biết đi nương, gùi cả bao ngô mà vẫn bước phăm phăm như ngựa mới được. Cậu làm thầy giáo không có ngô ăn đâu”. “Đôi uyên ương” nhìn nhau cười, Sơn nói: “Con có thể đi nương, vác củi, làm dần chắc sẽ quen thôi. Con dạy cái chữ cho dân làng, có tiền con xuống chợ mua ngô về là có ngô ăn mà”.
Ngay bữa cơm trưa, thầy giáo người Kinh đã được gia đình nhà vợ tương lai thiết đãi 3 bát mèn mén, ăn vào đến sôi cả dạ dày. Chưa kịp nghỉ, cả gia đình đã sắm sửa cuốc xẻng leng keng chuẩn bị đi nương. Nhìn theo cánh tay Chà chỉ thì nương ngô của nhà ngay ngọn núi phía trước mà đi mãi, đi mãi mà chẳng thấy đến. Khi đôi chân Sơn đã mỏi nhừ và cố lê từng bước thì mới nhìn thấy một mảnh nương ngô “vắt vẻo” theo khe đá. Rồi cả nhà bắt đầu công việc luôn. Cầm cuốc vun ngô từ chiều đến tối đã khiến đôi tay mềm mại thư sinh của Sơn ngày nào trở nên khô rát, bầm tím. Chiều về, cả nhà lại kéo nhau xuống núi, trên vai mỗi người là một vác ngô khô to sụ. Còn thầy giáo Sơn chỉ đi không nhưng phải cố gắng lắm mới tới nhà.
Liên tiếp các ngày nghỉ sau đó, thầy Sơn về nhà người yêu giúp gia đình người yêu làm nương ngô, chẻ củi, nhặt đá xây tường. Dần dần thành quen, việc gì Sơn cũng làm được như người Mông vậy, cũng chính nhờ đi nương mà Sơn đã học được cách thổi sáo Mông từ bố vợ tương lai. Sơn kể: “Những tưởng như thế đã chinh phục được gia đình người yêu, ai dè khi nói chuyện muốn lấy Chà làm vợ, bố Chà thẳng thừng dứt khoát: “Không được”. Nhưng Sơn không hiểu vì lý do gì?
Một thời gian sau, Chà mới nói với Sơn: “Bố em nói nhà em, cả họ nhà em ai cũng bọc răng cửa màu vàng, giờ lấy anh về làm con rể mà răng anh không bọc vàng nên bố em không chấp nhận đâu”. Một thử thách vô cùng lớn nữa ập đến với Sơn. Phải mất vài tháng trời suy nghĩ, Sơn không dám thông báo về nhà là mình đã có người yêu trên cao nguyên và muốn lấy vợ trên này luôn. Đặc biệt chuyện bọc răng vàng lại càng không.
Cuối cùng bằng tình yêu, sự chăm sóc chân thành của cô gái Mông hiền lành, khỏe mạnh, nhận thấy cuộc sống này hai người không thể thiếu nhau. Anh Sơn đã quyết định xuống trung tâm thị trấn Đồng Văn tìm đến cửa hàng bọc răng vàng chuyên nghiệp để bọc toàn bộ những chiếc răng cửa thành răng vàng. Vậy là từ nay, mỗi khi thầy khoác lên mình bộ quần áo dân tộc Mông mà Chà tặng hôm sinh nhật lần thứ 24 của mình thì Sơn đã “biến” mình thành một chàng trai Mông thực thụ.
Để lấy được Chà làm vợ, Sơn đã thay đổi hoàn toàn, từ một thầy giáo người Kinh yếu ớt thành một chàng trai Mông khỏe mạnh biết thổi sáo, vác củi, gùi ngô giỏi, lại có bộ răng vàng sáng bóng. Nhưng Sơn cũng lo lắng, liệu gia đình miền xuôi của mình có đồng ý cho mình lấy một cô gái Mông quanh năm không bao giờ xuống núi làm vợ không?
Ngày cưới anh Sơn chỉ đưa đến nhà vợ vài trăm nghìn cùng một con lơn con và chai rượu.
Quả thật không sai. Hồi ấy chưa có điện thoại nên những lá thư từ nơi địa đầu tổ quốc lần lượt được gửi về. Ngoài kể chuyện thầy giáo đến tận nhà dân, “bắt” con họ đi học, chuyện đi nương, xách nước, gùi gạo. Sơn còn kể câu chuyện mình chinh phục một gia đình người Mông để lấy bằng được con gái họ làm vợ. Nghe vậy gia đình và bạn bè Sơn ai cũng trách. Bố mẹ Sơn còn nói nếu lấy cô ấy thì đừng bao giờ về nhà gặp gia đình nữa.
Kỳ nghỉ hè năm 2002, Sơn dẫn người yêu về thăm gia đình. Chà kể: “Ngày ấy, lần đâu tiên đi xa, mình say xe lắm, đến nơi vẫn còn mơ màng thì cả làng xóm, họ hàng nhà anh Sơn kéo nhau ra xem cô dâu tương lai. Mình mặc bộ trang phục của người Mông to sù sụ. Nhiều người lần đầu tiên nhìn thấy trang phục lạ lùng này đã lại gần tỉ tê nói chuyện rồi tranh thủ sờ xem. Lúc đó mình ngại vô cùng. Càng ngại hơn khi mình bắt chuyện với người nhà anh Sơn ai cũng im lặng, rồi lẳng lặng đi làm việc khác”.
Cũng như Sơn lần đầu tiên ra mắt nhà Chà, Chà cứ lân la theo mẹ Sơn làm việc, việc gì Chà cũng xông vào làm, lại hoàn thành công việc rất nhanh, đặc biệt là việc làm cỏ vườn, chăn gà, chăn vịt. Duy chỉ việc nấu cơm là Chà không học được, vì trên cao nguyên chưa bao giờ Chà được biết những món ăn “kỳ lạ” này. Mới đây mà hai tuần ra mắt nhà chồng đã trôi qua, mọi việc vẫn không tiến triển gì. Gia đình Chà đã chấp nhận chàng rể người Kinh, còn gia đình Sơn thì vẫn nhất quyết không chịu nhận cô dâu người Mông.
Hết kỳ nghỉ hè, hai người lại dắt tay nhau lên cao nguyên. Biết không còn cách nào khác để thuyết phục bố mẹ, Sơn đã nhờ cô Hiệu trưởng trường mình đang dạy làm chủ hôn. Đồ cưới mà anh Sơn mang đến nhà gái chỉ vài trăm nghìn cùng một con lợn con và chai rượu. Vậy là lễ thành hôn của đôi bạn trẻ được tổ chức theo phong tục của người Mông chỉ có đại diện gia đình nhà gái. Các thầy cô trong trường, các em học sinh đến chúc mừng thầy giáo rất đông. Đêm tân hôn ấy, các thầy cô trong trường đã tu sửa một góc bếp nấu ăn để kê được chiếc giường cũ mượn của một nhà dân địa phương, chăn gối cùng đều là đồ của các thầy cô giáo tặng. Vậy là qua bao biến cố trắc trở, họ đã có được ngày hạnh phúc trọn vẹn bên nhau.
Câu chuyện cứ kéo dài mãi, có lẽ sẽ chẳng có hồi kết nếu như tiếng gà gáy từ các bản làng khác không vọng lại. Anh Sơn chợt nhớ, hôm nay phải ngủ sớm để ngày mai còn xuống chợ phiên Lũng Phìn, chiều về còn ra thị trấn Đồng Văn thăm hai con trai đang trọ học ngoài đó.
Sáng hôm sau, mới tờ mờ sáng chúng tôi cùng anh Sơn, chị Chà xuống núi tham gia phiên chợ và ra thị trấn gặp hai cậu “quý tử” của hai người. Mỗi người xoa đầu hai cậu con trai rồi anh Sơn nói với chị Chà: “Nếu ngày đó anh không quyết định lấy em thì làm sao có được hạnh phúc như bây giờ!”. Hai người dắt tay nhau vào ngôi nhà nhỏ mới mua được tại thị trấn Đồng Văn.